Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà thuộc địa phận của 4 huyện: Khánh Vĩnh, Khánh Sơn, Cam Lâm và Diên Khánh của tỉnh Khánh Hòa; nằm cách thành phố Nha Trang khoảng 30 km đường chim bay và khoảng 60 km đường đi ô tô.
Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà (Khánh Hòa).
Hòn Bà nằm trên một vị trí khá cao, hơn 1.500m so với mức nước biển, có khí hậu mát mẻ quanh năm, được ví như Đà Lạt thứ hai của Miền Trung, độ ẩm quanh năm cao vì có mưa thường xuyên trong suốt năm. Từ Quốc lộ 1A, đoạn qua xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, rẽ vào con đường nhỏ sát chân núi, cạnh hồ Suối Dầu để bắt đầu hành trình chinh phục Hòn Bà. Con đường 37 km từ Suối Dầu lên đỉnh Hòn Bà với những khúc cua cùi chỏ sẽ thỏa mãn đam mê đối với những người ưa mạo hiểm.
Hòn bà khám phá bởi bác sĩ Alexandre Yersin. Từ năm 1915, ông đã xây dựng trại nghiên cứu tại cao độ 1.500 m trên đỉnh Hòn Bà, nơi đây đã thực hiện nhiều chương trình thực nghiệm, gây trồng và sử dụng các loài cây thuốc (ngày nay vẫn còn vài dấu tích). Trong số đó, có cây kí ninh (Cinchona ledgeriana)được nhập từ Nam Mỹ. Để tưởng nhớ đến bác sĩ Yersin, tỉnh đã cho phục dựng ngôi nhà của ông trên nền cũ tại đỉnh Hòn Bà. Đặc biệt ông còn có công điều tra phát hiện nhiều loài thực vật quý hiếm tại Hòn Bà, được vinh danh mang tên cho vài loài tiêu biểu như: trương hùng (Reevesia yersinii), chè Hòn Bà (Thea yersinii).
Suối Đá Giăng là một trong những con suối lớn nhất trong Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà
Khu bảo tồn Hòn Bà được thành lập theo quyết định số 98/2005/QĐ-UBND, ngày 15-12-2005 của UBND tỉnh Khánh Hòa với các mục tiêu và nhiệm vụ sau: Bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng nhiệt đới và á nhiệt đới với các nguồn gen động thực vật quý hiếm; Phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ và duy trì nguồn nước cho hồ Suối Dầu; Góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, điều tiết khí hậu; Phục vụ nghiên cứu khoa học về rừng, tạo nên một khu du lịch sinh thái hoàn chỉnh khép kín với du lịch biển TP. Nha Trang.
Đường lên đỉnh Hòn Bà
Khu bảo tồn có tổng diện tích là 20.978,3 ha; bao gồm các phân khu chức năng: Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 10.448,2 ha; Phân khu phục hồi sinh thái: 10.530,1 ha; Phân khu hành chính dịch vụ: từ 15-20 ha. Đối với vùng đệm sẽ khảo sát và được hình thành một dự án riêng.
Nhà làm việc của Bác sỹ Yersin trong khu bảo tồn.
Tại Khu bảo tồn, các phân khu chức năng, vùng đệm; khu vực bảo vệ và phát triển rừng; khu vực xây dựng cơ sở hạ tầng; các chương trình điều tra nghiên cứu, bảo tồn, phát triển, theo dõi, giám sát, thu thập, lưu trữ thông tin đa dạng sinh học, chương trình phát triển du lịch sinh thái, phát triển dịch vụ môi trường rừng; bảo tồn, bảo vệ các giá trị văn hóa lịch sử… được quy hoạch cụ thể nhằm bảo vệ, bảo tồn nguyên vẹn tài nguyên thiên nhiên đi đôi với phát triển rừng; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ và phát triển các nguồn gen về động vật và thực vật rừng đặc hữu, quý, hiếm; bảo đảm chức năng phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ môi trường sinh thái; thực hiện nghiên cứu khoa học; phát huy thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan, văn hóa, lịch sử...
Theo kết quả điều tra khảo sát, có thể phân loại thảm thực vật rừng ở Hòn Bà theo các kiểu sau:
Rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi trung bình (ở độ cao từ 1.000-1.600m); trong đó có kiểu rừng kín TX hỗn giao cây lá rộng và lá kim á nhiệt đới.
Rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp (độ cao từ 500-1.000m)
Rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới (độ cao dưới 500m)
Rừng thứ sinh nhân tác nhiệt đới; trong đó có các kiểu phụ rừng tre nứa xen cây gỗ, rừng phục hồi sau nương rẫy, trảng cỏ cây gỗ và cây bụi rãi rác...
Hệ thực vật rừng ở Hòn Bà thể hiện sự đa dạng rõ nét: số liệu điều tra thống kê ban đầu có khoảng 592 loài thực vật bậc cao, thuộc 401 chi và 120 họ; trong đó: thông đất và dương xỉ có 73 loài, ngành hạt trần có 8 loài và ngành hạt kín có 511 loài. Ngoài các thành phần cây lá kim, tại đây còn có sự hiện diện của những loài thuộc các họ chỉ phân bố ở đai khí hậu á nhiệt đới hoặc ôn đới như: họ Đỗ quyên (Ericaceae), họ Thích (Aceraceae), họ Nguyệt quế (Lauraceae), họ Ráng tiên tọa (Cyatheaceae)...
Theo kết quả thống kê sơ bộ cho thấy hệ động vật rừng bao gồm 255 loài thuộc 88 họ; nằm trong 4 lớp thú, chim, bò sát và ếch nhái. Đặc biệt có sự hiện diện của các đàn Chà vá chân đen và Vượn bạc má.
Giá trị về khoa học: trong danh lục thực vật Hòn Bà đã thống kê được 43 loài quý hiếm được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam, trong đó đáng kể là các loài thông lá dẹt (Pinus krempfii), pơ mu (Fokienia hodginsii), hồng quang (Rhodoleia championii), gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), trắc dây (Dalbergia annamensis), mun (Diospyros mun), xoay (Dialium cochinchinensis), …
Đa dạng về yếu tố đặc hữu: một số loài mang tên các địa danh Nha Trang, Hòn Bà như: dẻ gai Nha Trang (Castanopsis nhatrangensis), thị Nha Trang (Diospyros nhatrangensis), đỗ quyên Nha Trang (Rhododendron nhatrangensis), sồi Hòn Bà (Lithocarpus honbaensis), bùi Hòn Bà (Ilex honbaensis), minh điền Hòn Bà (Medinilla honbaensis). Có những nguồn gen đặc biệt quý hiếm, như thông lá dẹt là loài đặc hữu của Việt Nam, ớt làn mụn cóc (Tabernaemontana granulosa) là loài đặc hữu hẹp mới chỉ tìm thấy ở Hòn Bà và Ninh Hòa (Khánh Hòa) …
Giá trị về dược liệu: Hòn Bà là nơi có nguồn dược liệu tự nhiên hết sức phong phú và giá trị cao: linh chi (Ganoderma lucidum), sa nhân (Amomum xanthioides), dó bầu (Aquilaria crassna), lười ươi (Scaphium lychnophorum), cốt toái bổ (Drynaria fortunei), ngũ gia bì (Schefflera octophylla), ba gạc (Rauwolfia cambodiana), bời lời chanh (Litsea cubeba), …
Giá trị về cung cấp gỗ và lâm đặc sản: Hòn Bà có nhiều loài cây gỗ quý như: pơ mu, hoàng đàn giả, gõ đỏ, giáng hương, mun, sơn huyết, sến, gõ mật, … Nhiều lâm đặc sản khác như: song mây …