Một phần nghi lễ trong Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa. Ảnh cinet.gov.vn
Trong
các cuốn sử liệu cổ của nước ta biên soạn dưới triều Nguyễn gồm: “Gia
Định thành thông chí” của tác giả Trịnh Hoài Đức, “Đại Nam nhất thống
chí” và “Đại Nam thực lục chính biên” của Quốc sử quán triều Nguyễn đều
nhắc tới tục thờ Ông Nam Hải, chứng tỏ tín ngưỡng thờ cúng Ông Nam Hải
là một tín tục đã có từ lâu đời, được lưu truyền, duy trì và tiếp nối
liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Điều này cũng được khẳng định
qua việc chính quyền phong kiến trung ương chính thức công nhận vị Phúc
thần này qua ban tặng Sắc phong cho Cá Voi với các mỹ hiệu mang đậm giá
trị nhân văn với tên gọi: Ngọc Lân, Nhân Ngư, Đức Ngư. Đây là giá trị di
sản văn hóa Hán Nôm vô cùng quý giá, chứng minh cho quá trình khai
thác, làm ăn trên biển đảo cũng như chinh phục và làm chủ biển đảo của
cộng đồng ngư dân ở Khánh Hòa từ xưa tới nay.
Lễ
hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa còn bảo lưu các nghi thức truyền thống với các
nghi lễ: Lễ rước sắc, Lễ Nghinh Ông, hò bá trạo, Lễ Tỉnh sanh, Lễ Tế
chánh, Thứ lễ và Tôn vương, Lễ Tống na. Với nhiều nét đặc thù, hội tụ
đầy đủ những giá trị văn hóa cổ truyền và có tác động sâu rộng đến đời
sống tinh thần của cư dân vùng biển đảo, Lễ hội Cầu Ngư là yếu tố tổng
hợp các hình thức nghệ thuật truyền thống, diễn xướng dân gian, các trò
chơi dân gian, tạo thành một bức tranh sinh động, đa sắc của ngày hội
làng biển, được nhân dân Khánh Hòa sáng tạo, trao truyền và gìn giữ bao
đời nay.
Ngày
27-12-2012, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số
5079/QĐ-BVHTTDL công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể (đợt 1).
Theo đó, 33 di sản văn hóa phi vật thể đã được đưa vào Danh mục di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia theo quy định của Luật Di sản văn hóa,
trong đó có Lễ hội Cầu Ngư của tỉnh Khánh Hòa.
Lễ
hội Cầu Ngư hay còn gọi là Lễ Nghinh Ông. Từ xưa, ngư dân vùng ven biển
đã cho rằng cá voi là một loài cá hiếm, không làm hại ai và thường giúp
họ khi gặp giông bão trên biển. Lợi dụng điều này một số người đã thêu
dệt thêm nhiều huyền thoại về cá voi, gắn cá voi với cuộc đời bôn tẩu
của Nguyễn Ánh, tô vẽ chuyện cá voi đã cứu sống Nguyễn Ánh trong một vụ
đắm thuyền, dùng thần quyền đề cao nhân vật này. Sau khi xưng vương, Gia
Long đã phong cá voi tước hiệu "Nam hải cự tộc ngọc lân Thượng đẳng
Thần". Các vua triều Nguyễn sau đó phong sắc cho cá voi với danh hiệu
"Đại càng quốc gia Nam Hải".
Càng
tin vào sự giúp đỡ của cá voi, ngư dân tổ chức việc thờ cúng hết sức
thành kính. Họ kiêng gọi cá voi mà gọi là Cá Ông hoặc Ông Nam Hải, xây
lăng thờ cúng gọi là Lăng Ông. Trong lăng có hòm chứa xương cá voi (gọi
là Ngọc Cốt). Hàng năm, người ta tổ chức ngày giỗ đúng vào ngày ông lỵ
(cá voi chết) và hai kỳ xuân tế thu tế, cúng cầu ngư vào mùa đánh bắt
của mỗi năm. Nghi lễ cúng như nghi lễ tế đình, điều khác biệt là màn hát
bá trạo kết thúc lễ tế và mở đầu cho hội hát chầu (có khi kéo dài đến 5
- 7 ngày).
|
|